LÀM THẾ NÀO TIN HỌC HOÁ TOÀN BỘ CÁC XÍ NGHIỆP VIỆT NAM (phần
2)
Dương Quang Thiện
Trong phần 1
đi trước, ta đã rút ra những điều ta cần để ý đến, khi giải quyết vấn đề trong
phần 2 này. Tôi xin liệt kê lại những kết luận rút ra, để từ đó suy ra những giải
pháp có thể có được:
1/ -Vẫn còn đó 500.000 xí nghiệp/cơ quan chưa
được tin học hoá và trong một thời gian ngắn vào khoảng từ 2 đến 3 năm ta phải
làm thế nào tin học hoá cho xong. Nghe nói như thế, rất nhiều người sẽ cho là
điên, chẵng khác nào bà Nữ Oa đội đá vá trời.
2/ - Đội ngũ IT được đào tạo trong thời gian qua cũng như trong
những năm tới không thể xài được nếu tiếp tục sử dụng theo như từ trước đến
nay. Một số IT đã bỏ nghề quay ngoắt 180 qua một nghề khác, một số đang lang
bang không làm gì cả, một số đầu quân vào những công ty outsourcing (như công
ty TMA chẵng hạn) viết phần mềm gia công cho nước ngoài, số còn lại vất vưởng
trong các công ty không làm được gì ra trò, than thân trách phận. Tuy nhiên
cũng có một số rất ít cố gắng bám trụ, tự mình trau dồi nghiệp vụ, cũng làm
được chút gì cho xí nghiệp, nhưng không là gì cả. Chúng tôi không quan tâm đến
những công ty "đại gia" lắm của nhiều tiền dùng phần mềm ERP
của các công ty phần mềm nước ngoài như Oracle, SAP, hoặc Dynamics của
Microsoft. Nhưng làm sao cải tạo loại chuyên viên IT lông bông vất vưởng trong
500.000 đói HTTT quản lý này.
3/ - Chiều hướng tới là sử dụng mô hình ERP để tin học hoá các xí
nghiệp mà khỏi qua các công ty ERP đại gia như Oracle, SAP, PeopleSoft hoặc
Microsoft. Làm thế nào tạo những modul, dạy cho khách hàng hiểu ý nghĩa từng
modul, rồi tự học lập trình từng modul cho tới khi chạy được. Làm sao đào
tạo những người trong công ty chưa hề biết tin học thành những lâp trình viên,
phân tích viên, triển khai viên, và kiến trúc sư, không theo một phương thức
truyền thống. Lại một kiểu đội đá vá trời.
Bây giờ tôi
xin trình bày cách suy nghĩ và cách giải quyết bài toán mà chúng tôi đã trình
bày trong phần 1, và trong phần mở đầu phần 2 này.
Bây giờ ta
sẽ giải quyết thế nào trước khối lượng 500.000 xí nghiệp chưa có một HTTT
"ra hồn"?. Tôi có nghe một câu nói của người Hồi Giáo như
sau: nếu núi không đến với tiên tri Mahomet, thì Mahomet sẽ đi lên núi. Áp
dụng cho trường hợp chúng ta, thì nếu nhân viên của 500.000 xí nghiệp không thể
đến trường nghe giảng kinh tế và IT (vì khối lượng quá lớn, mà cũng không tài
nào có nỗi số giảng viên đủ dạy cho khối lượng người này), thì các môn kinh tế
và IT phải về đến tay các nhân viên qua Internet, thông qua những lớp online
(học bất cứ giờ nào, học bất cứ nơi nào, kể cả khi ngồi xã bầu tâm sự trong cầu
tiêu). Vì học trực tuyến ngay tại chỗ làm việc theo phương pháp step-by-step
nên cái người ta quan tâm là kết quả làm việc, cho ra ngay sản phẩm hơn là văn
bằng do lớp online cung cấp.
Các phần mềm
để dạy các lớp online chạy trên nền Internet thì nay cũng đã có quá nhiều trên
thị trường trên thế giới, cho phép ta chọn lựa thoãi mái. Phần mềm dạy online
này thường gồm hai phần: phần A giúp giảng viên chuẩn bị giáo trình chạy
online. Khi phần A được chuẩn bị xong thì được nạp lên phần B, và khi người học
đăng ký môn học, thì phần B lo quản lý sự học hành của sinh viên đã đăng ký.
Phần B theo dõi mọi thứ trong việc học của sinh viên: giờ giấc, nhịp độ, thời
lượng, trắc nghiệm giữa kỳ và cuối kỳ, qui chiếu về những phần phải tham khảo
khi trả lời sai trước những câu quiz. Nói tóm lại, giờ đây với hạ tầng cơ sở
truyền thông bẳng Internet, phương pháp dạy online giúp ta giải quyết dạy thực
tập một số lượng lớn người học với một phí tổn hầu như bẳng zero. Riêng chúng
tôi, thì nhóm Khai Trí Business Information System (BIS) đã đề nghị sử dụng
phần mềm Moodle trong việc dạy online. Chúng tôi nghiên cứu phần mềm miễn phí
này.
Như vậy, với
Internet và phương pháp dạy online, ta có cơ hội dạy cùng lúc cho một số lớn xí
nghiệp cách làm thế nào tự tin học hoá việc quản lý sử dụng máy tính và tự
thành lập một HTTT quản lý cho mình mà khỏi phải sự trợ giúp của các công ty
phần mềm Oracle, SAP, v.v.. hoặc của các công ty outsourcing. Vấn đề là tạo
ra một nội dung cho mỗi các môn học hình thành những modul của mô hình ERP như
ta đã giải thích trong phần 1.
Công việc
như thế nào? Ta phải hình thành 7 môn cốt lõi tương ứng với 7 modul ERP,
như ta đã trình bày ở phần 1. Mỗi môn, khi dạy phải mang hai hình thái: kinh tế
và IT. Phần kinh tế vào đầu giải thích chức năng của modul về mặt kinh tế trong
lòng một xí nghiệp: ý nghĩa kinh tế của chức năng, từ khi vào cho đến khi
ra, kèm theo những luồng dữ liệu/thông tin (DL/TT) đi kèm khi thực hiện chức
năng này. Chính trong các trường kinh tế tài chính, người ta chỉ dạy phần chức
năng của modul, nhưng lại không phân tích luồng dữ liệu / thông tin phát sinh
hoặc thu thập để được xử lý theo mô hình IPO (Input-Process-Output) như theo
hình dưới đây:
Khi giải thích các luồng DL/TT vào ra modul hoặc luân chuyển trong nội bộ modul, chúng tôi sẽ sử dụng cách vẽ được gọi là Data Flow Diagram (DFD) để chỉ rõ đường đi nước bước của dữ liệu. Dưới đây là một hình DFD của modul Order Processing (xử lý đơn đặt hàng).
Khi người học đã hiểu thấu phần kinh tế của modul, thì chúng ta bước qua dạy cách thực hiện chức năng kinh tế thông qua các chương trình phần mềm máy tính. Ta có thể chọn ngôn ngữ lập trình C# hoặc phần mềm Access 2007 của Microsoft. Theo tôi nghỉ, bước đầu ta sử dụng MS Access, vì nó tương đối dễ học và thực hành, cho ra chương trình nhanh và dễ chỉnh sửa. Sau khi hình thành xong một hệ thống chạy bằng Access chạy tốt, ổn định, ta có thể chuyển đổi hệ thống viết theo ngôn ngữ C#, nếu ta muốn. Trong giai đoạn này, ta dạy cho người học tạo ra những tập tin (file) - còn gọi là table - thường được chia thành: master file, detail file, transaction file, v.v.., rồi những màn hình nhập dữ liệu, gọi là data entry screen, cũng như các báo cáo. Ta phải dạy thành lập những chương trình xử lý dữ liệu theo kiểu từng bước một (step-by-step), xong bước này tới bước khác. Khi đạt đến bước cuối cùng thì modul sẽ được đưa vào hoạt động. Dữ liệu cho mỗi modul sẽ được lấy từ xí nghiệp, dữ liệu sống. Khi ta hình thành một hệ thống ứng dụng cũa mỗi modul đến bước hoàn tất thì ta có thể cho chạy thừ song song với hệ thống làm bằng tay trong 3 tháng tối đa, để so sánh kết quả, nếu có sai sót nhỏ thì chỉnh sữa, cho tới khi hệ thống làm bằng tay và hệ thống chạy bằng máy tính cho ra kết quả giống nhau. Lúc này, thì ta có thể gỡ bỏ hệ thống làm bằng tay.
Như chúng
tôi đã bảo là trong mô hình ERP có cả thảy 7 modul. Có modul dễ, có modul khó.
Ta bắt đầu thành lập modul dễ, rồi tiếp theo modul vừa vừa, và cuối cùng modul
khỏ nhất. Như vậy những modul dễ đi trước sẽ tập huấn những bước đi ban đầu
giúp bạn thêm kinh nghiệm đối với những modul đi sau. Chúng tôi sắp xếp
các modul đi từ dễ lên khó như sau:
(1) CASH & BANK (CAB); ACCOUNT RECEIVABLE
& ACCOUNT PAYABLE (AR/AP);
(2) FIXED ASSETS (FA), ACCOUNTING (ACT);
(3) INVENTORY CONTROL (IC); ORDER PROCESSING
& SALES (OPS);
(4) PAYROLL (PAR). Modul dễ chỉ cần 2 tuần là
xong. Modul vừa cần 4-6 tuần là xong, còn modul khó thì phải mất 12 đến 20
tuần. Nếu giỏi lắm thì mất 12 tháng, bết lắm cũng 18 tháng. Có người sẽ cho tôi
quá lạc quan. Có nhiều công ty tự động hoá chỉ một ứng dụng vật tư mà mất đến 2
năm mà chưa đâu vào đâu. Ở đây, nên nhớ phần phân tích, phần xác định nhu cầu
(requirement) nhập và xuất chủng tôi đã làm hơn 80% công việc, khi truyền cho
học viên theo online, học viên làm phần 20% còn lại thích ứng với môi trường họ
ứng dụng. Do đó, tôi để cho thời gian trả lời tôi có lạc quan tếu hay không.
Như bạn có
thể thấy, điểm quan trọng là nội dung của mỗi modul sẽ được truyền giảng bằng
online. Học viên sẽ được học phần lý thuyết (phần kinh tế), rồi sau đó thực
hiện thực hành những chương trình (phần IT). Như vậy học viên sẽ biết lục phủ
ngũ tạng của một HTTT quản lý sẽ được hình thành thế nào, hoàn toàn khác với
việc sử dụng phần mềm ERP mua của ngoại quốc. Phần mềm ERP của ngoại quốc viết
theo cái lô gic cơ sở pháp lý ngoại quốc, còn đây học viên viết theo lô gic
pháp lý VN. Khi một xí nghiệp tham gia chương tin học hoá của chúng tôi, theo
mỗi modul họ phải gởi ít nhất 2 người, 4 người đối với module khó lập thành một
team. Team này, gồm một nữa quen nghiệp vụ của chức năng (phần kinh tế), nữa
kia biết IT (có thể là những ai lông bông, vất vưỡng), như vậy khi học làm một
modul thì người quen nghiệp vụ sẽ giải thích phần kinh tế cho người IT phía kia
hiểu, còn khi qua viết chương trình, thì dân IT giải thích phần kỹ thuật máy
tính cho dân nghiệp vụ kinh tế biết rõ. Như vậy, cả hai loại người hiểu nhau
người này không ai cầm tay chỉ việc người kia.
Cuối cùng,
làm thế nào đào tạo những người trong công ty chưa hề biết tin học thành những
lâp trình viên, phân tích viên, triển khai viên, và kiến trúc sư, không theo
một phương thức truyền thống. Lại một kiểu đội đá vá trời. Để giải quyết vấn đề
này, chúng tôi sẽ soạn những tập sách đặc biệt: một dành cho kiến trúc sư, một
dành cho triển khai viên. Còn sách dành cho phân tích viên, thì bộ sách
"Phân tích Thiết kế các HTTT" của ông Dương Quang Thiện đã khá đầy đủ
và đã được phát hành từ lâu. Như bạn đã biết là tại các xí nghiệp chỉ có kỹ sư
tin học. Còn các chức danh khác: phân tích viên, triển khai viên và kiến trúc
sư thì là zero. Ta đành hoạt động theo kiểu phân thân của Tôn Ngộ Không. Nếu
đóng vai kiến trúc sư, thì đọc quyển sách dành cho kiến trúc sư mà chúng tôi sẽ
viết ra trong tương lai. Với vai trò triển khai viên cũng thế. Mỗi vai trò đều
độc lập, nên việc đọc tập dành cho kiến trúc sư không tuỳ thuộc vào kiến thức
của triển khai viên. Trong một lúc, bạn có thể giữ nhiều vai trò, giống như Tôn
Ngộ Không. Viêc này không có chi là không thể được, vì bản thân tôi, tôi đã có
lần làm như thế.
Tôi xin kể
chút chuyện của tôi để các bạn hiểu vấn đề tôi đặt ra. Đầu năm 1964, tôi vào
làm việc cho IBM FRANCE ở Paris. Sau 18 tháng được huấn luyện thành System
Engineer (SE), tôi được chuyễn về Sai Gon làm cho IBM WORLD TRADE, vào ngày
14/07/1965, đúng một tuần trước khi Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, bắt đầu mộc chiến
tranh can thiệp. Vào thời điểm đó, chỉ ở SG mới có máy điện cơ kế toán, được
gọi là unit records (UR), tiền thân máy điện toán. Có cả thãy 25 cơ quan nhà
nước và 2 cơ quan tư nhân Pháp sử dụng máy UR. Nhiệm vụ của tôi là làm thế nào
dụ khách hàng chuyển từ máy UR thành máy IBM 360/20. Vì là người Việt đầu tièn
vào ngành này, nên một thân một mình phải tự bươn chải, chả dựa được vào ai.
Ban ngày đi phân tích vấn đề cho 4 cơ quan, ban đêm đi dạy lập trình ngôn ngữ
RPG tại hai nơi: trường nay là Lê Quy Đôn, và bộ tổng tham mưu VNCH nay ở đường
Hoàng Văn Thụ. Sau đó dạy cho nhân viên các cơ quan làm phân tích chi tiết, rồi
vẽ flowchart các chương trình phải viết, rồi theo dõi nhân viên viết chương
trình, test, rồi ráp nối thành ứng dụng. Bạn thấy tôi giống như Tôn Ngộ Không
không. Trong 4 năm tôi tin học hoá được 12 cơ sở, trong ấy có công ty BGI của
Pháp mà tôi đầu quân vào giữa năm 1969. Trước khi rời IBM tôi đã lên trường Chính
trị Kinh doanh Đà Lạt tuyển cho IBM 12 người để được đào tạo thành SE như tôi.
Câu chuyện nhỏ này cho bạn thấy có thể đào tạo các chuyên viên điện toán hoạt
động theo kiểu Tôn Ngộ Không như tôi đã từng làm.
Tới đây tôi
xin chấm dứt phần 2.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét