Translate

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Trời Trong Phong Tục Của Người Việt



I /- Dẫn nhập
Nhà triết học người Mỹ, G.Hick đã viết: “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong sự cô đơn của mình, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo…” Nhận định này có đúng không? Chúng ta thử tìm hiểu về nhận định này trong khuôn khổ của tập tục thờ Trời của người Việt Nam.
Ngay từ thời lập quốc, tâm thức của người Việt đã hình thành ý niệm về tôn giáo. Ý niệm này thấm nhuần khá sâu vào tâm hồn người Việt và thể hiện qua việc “thờ Trời”. Phải chăng ý niệm “Trời” đã được Đấng Tối Cao đặt để sẵn trong tâm thức của người Việt, và đã ăn sâu trong tâm khảm của người Việt trải qua bao nhiêu đời vẫn không phai nhạt? Linh mục Léopold Cadière (1869 – 1955), nhà nhân chủng học người Pháp, đã sống gần trọn cuộc đời tại Việt Nam từ năm 1892, mất tại Huế năm 1955, hưởng thọ 86 tuổi. Hiện nay mộ của ông nằm phía sau Đại chủng viện Xuân Bích, Kim long, Huế. Ông tự nhận mình đã được Việt hóa và đã có nhận xét rất tinh túy về khái niệm “Trời” trong văn hóa Việt như sau:
“Hình như những ý nghĩa chính chúng ta thấy gán cho chữ TRỜI thuộc về cái vốn triết học riêng của dân tộc Việt Nam, vì ý niệm TRỜI đã ăn sâu vào trong tâm hồn người Việt Nam. Trời được xem như các nguyên lý các hiện tượng thời tiết và được nhân cách hóa. Trời được xem như một Đấng Toàn Năng có ảnh hưởng đến vận mệnh loài người . . .” (Trích Tôn giáo học và các tôn giáo lớn ở VN của linh mục Nguyễn Thế Thoại dịch từ “Croyances et Pratiques Religieuses des Vietnamiens”).
II /- Khái niệm về “Ông Trời” trong tâm thức người Việt
Ý niệm “Trời” vốn đã hiện hữu trong tâm thức của người Việt xưa từ thuở nguyên sơ, trước khi những tôn giáo khác du nhập vào Việt Nam. Người Việt nhân cách hóa vị thần không biết ấy và tôn xưng là: “Ông Trời”. Trong tâm thức người Việt, từ ngữ “trời” là một từ rất thông dụng. Từ ngữ này có thể là bầu trời bao la phủ vây trái đất, đồng thời cũng là Đấng Thần linh toàn năng, quyền phép vô biên và là Đấng Tạo hóa sáng tạo ra vũ trụ và loài người.
Nghe tiếng chim hót trên cành, người ta liên tưởng đến chính bản thân mình chắc hẳn cũng phải do Đấng Tạo hóa ấy tạo dựng nên. Mối suy tư này thể hiện qua bốn câu ca dao súc tích:
Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao
Nếu Trời không có, làm sao có mình?
Tiếng “Trời” là tiếng mà người Việt, bất kể thuộc tầng lớp nào trong xã hội, có tôn giáo hay không, vẫn thường bật thốt lên trong bất kỳ mọi tình huống, dù trong cơn đau khổ cùng cực hay trong những giờ phút vui sướng tột cùng. “Ông Trời” là ông thần không biết, không thấy, của người Việt, tuy vậy người Việt vẫn ý thức được có một Đấng Thần linh như thế, rất xa mà cũng rất gần, Đấng Thần linh ấy vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc Việt trải qua bao nhiêu thiên niên kỷ. Người Việt không nhìn thấy Ông Trời nhưng người Việt nhìn thấy những công việc do Trời sáng tạo như: sông sâu thăm thẳm, biển cả mênh mông núi cao vời vợi cùng với những cấu trúc tinh vi kỳ lạ của các loài thảo mộc… v.v, hoặc cụ thể nhất là chính đời sống và bản thân con người, người Việt bày tỏ lòng tin này thông qua ngôn ngữ của văn chương bình dân.
Núi kia ai đắp nên cao
Sông kia biển nọ ai đào mà sâu?
Gai trên rừng ai bứt mà nhọn
Trái trên cây ai vo mà tròn?
Người Việt tin rằng, Trời là Đấng soi thấu mọi nẻo trong vũ trụ, kể cả những gì sâu kín nhất trong đáy lòng của con người cũng không thể nào thoát khỏi con mắt của Đấng Thần linh ấy. Đối diện với những điều bí mật nhất mà con người không khả năng phát hiện thì người ta thường nói:
Chỉ có Trời mới biết
Và Ngài cũng là Đấng Thần linh rất mực công bằng, thưởng, phạt công mình thể hiện qua những câu ca dao:
Đi đâu cho khỏi lưới Trời
Ở đâu cho hạp mệnh Trời thì êm
       Hoặc:
Thiên báo nhãn tiền; Lưới Trời khó thoát
       Người ta đưa cả Trời vào làm chứng nhân cho mối tình của họ:
Dưới mặt nước chói lòa yếm đỏ,
trên bầu trời rộng có mây xanh
từ ngày chia rẽ em anh,
nước trời còn đó ai đành phụ nhau.
      Và họ cũng nhờ Trời chứng giám cho mối tình của họ:
Trời cao đất rộng,
em vọng lời nguyền
đất trời còn đó
em giữ tuyền thủy chung.
    Khi đau đớn vì bị phụ tình thì họ cũng lại cầu cứu với Trời:
Trời ơi có thấu tình chăng,
Con người nhân nghĩa lai căng mất rồi
   Những lúc được mùa họ cũng không quên ơn Trời và bày tỏ lòng biết ơn Trời qua những câu ca dao:
Nhờ Trời mưa thuận gió hòa,
Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.
Lạy Trời mưa thuận gió đều,
Cho đồng lúa tốt, cho chiều lòng em.
Người Việt cũng ý thức được sinh mạng của mỗi con người đều nằm trong sự tể trị của Đấng Thần linh ấy. Họ cầu khẩn Trời cho song thân được trường thọ:
Mỗi đêm mỗi thắp đèn Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Đạt được điều mình mong muốn thì người ta nói do “Trời cho” hay “nhờ Trời”; gặp lúc hoạn nạn, nguy khốn người Việt cũng chỉ biết có mỗi Đấng Thần Linh là Trời, họ cầu xin Trời cứu:
Nghiêng vai ngửa vái Ông Trời
Đương cơn hoạn nạn, độ người trần gian
Họ đặt lòng tin tuyệt đối ở Trời là Đấng cao cả tuyệt đối, Đấng sáng suốt soi khắp thế gian:
Trời xanh có mắt
Gẫm hay muôn sự tại Trời
Và:
Đèn Trời Trời sáng bốn phương
đèn tôi tôi sáng đầu giường nhà tôi
Con người là tạo vật cao quý nhất trong số muôn loài sinh linh do Ông Trời tạo dựng:
Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh”.
Những câu ca dao, tục ngữ lưu truyền trong văn hóa dân tộc Việt Nam mô tả Ông Trời là Đấng Tạo hóa có nhiều quyền uy còn nhiều vô số như:
Trời cho không ai thấy, Trời lấy không ai hay.
Người Việt cũng nhìn nhận mọi việc toan tính ở đời, thành bại đều do Trời quyết định. Khi thực hiện một công việc gì không đạt được kết quả như mong muốn thì người ta lại tự an ủi:
Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.
 Người Việt cũng tin rằng Trời sẽ không bỏ mặc những tạo vật do Ngài sáng tạo ra, Ngài luôn quan phòng và bảo tồn. Vì thế người Việt rất tự tin:
Trời sinh, Trời dưỡng
Trời sinh voi, Trời sinh cỏ
Ông Trời đối với người Việt là Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng và cũng là Đấng Thần linh rất gần gũi và thân thương với con người. Người ta sợ Trời, kính Trời, cần Trời và cũng giận Trời và kêu trách Trời khi gặp chuyện bất công:
Trời ơi, Trời ở chẳng cân
Người ăn không hết, người lần không ra
Người thì mớ bảy mớ ba
Người thì áo rách như là áo tơi!
Nhưng dù thế nào thì người Việt vẫn một lòng trung tín với Trời:
Dù ai nói ngược nói xuôi
Ta đây vẫn giữ đạo Trời khăng khăng.
Ông Trời không những chỉ xuất hiện trong ca dao.tục ngữ của Việt Nam mà còn bàng bạc cả trong những tác phẩm văn học của Việt Nam như trong Cung Oán Ngâm Khúc, tác phẩm của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều:
Quyền họa phúc Trời dành mất cả
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai.
Và trong truyền Kiều của thi hào Nguyễn Du:
 Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa
Thiện căn tự bởi lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
III / - Thờ Trời
Sự thực hữu của Đấng Thần linh mà người Việt xưng gọi cách thân thiết là “Ông Trời” rất rõ ràng. Ngài vẫn luôn tự bày tỏ sự hiện hữu của mình qua những tạo vật hiển hiện trước mắt chúng ta hàng ngày. Ngài vẫn đồng hành bên cạnh loài người trải qua bao nhiêu thời đại. Măc dù không nhìn thấy “Ông Trời” qua con mắt vật lý, nhưng trong tâm thức của người Việt vẫn luôn có sự hiện hữu của Đấng Thần linh vô hình ấy−Đấng đã tạo dựng ra vũ trụ và muôn loài sinh linh trên đất.
Trước vũ trụ bao la hùng vĩ, xinh đẹp nhưng cũng ẩn chứa muôn vàn hiểm nguy không lường, con người bị khuất phục, họ bất lực và cảm thấy mình quá nhỏ bé, cô đơn. Họ cầu khẩn Trời để mong nhờ sự che chở, bảo vệ lúc nguy khốn, con người đặt lòng tin nơi Trời, nương tựa vào Trời, họ kính sợ Trời biết ơn Trời nên họ thờ Trời.
Ý niệm về một Đấng Thần linh tối cao, Đấng Toàn năng trong tâm thức của người Việt chỉ là một nguyên tri, xuất hiện một cách tự nhiên trong tâm thức người Việt từ xưa, lúc tổ chức xã hội còn sơ khai, chưa có một tổ chức tôn giáo nào được hình thành nên việc thờ Trời trong dân gian chưa được hệ thống hóa, không có hệ thống giáo lý hướng dẫn. Vì thế, nghi thức “thờ Trời” của mỗi gia đình người Việt xưa chỉ là cái “Bàn thờ Ông Thiên” rất đơn giản.
1/ - Bàn Ông Thiên
“Bàn Ông Thiên” là một chứng tích của thời xa xưa, thuở người Việt từ vùng đất Thuận Quảng xa xôi, di dân đến một nơi u tịch mà người ta thường hay nói là “chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê”, để khai hoang lập ấp.
Đứng trước một khoảng không gian bao la mênh mông kỳ bí, ngẩng đầu nhìn lên là một vùng trời mây mênh mông bao phủ, cúi đầu nhìn xuống chỉ là mặt đất với đất, người Việt xưa chỉ còn biết nương cậy vào một vị thần mà họ không biết, Đấng Thần linh vô hình tối cao mà họ liên kết với bầu trời mà họ nhìn thấy và họ tôn xưng là “Ông Trời”. Người Việt xưa đã đặt trọn sự sống của mình vào Đấng Thần linh vô hình mà họ tin là đang cai quản cả vũ trụ ấy là “Ông Trời”. Khái niệm về tôn giáo của người Việt xưa bắt đầu hình thành tại nơi ấy.
 Người Việt thể hiện lòng tôn kính Đấng Thần linh ấy qua cái “Bàn thờ Ông Thiên”, hay là “Bàn Ông Thiên”. “Bàn Ông Thiên” chỉ là một cây cột trụ bằng gỗ hoặc bằng xi măng đơn giản, đường kính khoảng 1dm, bên trên đặt một tấm ván mỏng, vuông độ 4 x 5 dm dùng để bày biện lễ vật dâng cúng. Nếu làm bằng gỗ, người ta chỉ cần vạt nhọn đầu dưới và cắm xuống đất, đầu trên đóng hai cây gác chéo ngắn để giữ cho tấm ván không bị lật đổ khi ta để lễ vật dâng cúng Trời. Lễ vật dâng cúng tùy vào điều kiện, khả năng và hoàn cảnh của gia chủ. Ở thôn quê, diện tích đất dư thừa, sân nhà rộng rãi nên người ta đặt vị trí của Bàn Ông Thiên giữa sân nhà, cách ngạch cửa ra vào độ 4m, nơi chỗ đất trống trải nhìn thẳng lên trời và hướng về phương Nam.
Theo dòng chảy của thời gian, ý niệm thờ Trời của người Việt đã được phát triễn cùng với ảnh hưởng của các tư tưởng triết học Trung Hoa, do đó cái “Bàn Ông Thiên” cũng dần thay đổi hình thức, từ một cây cột tròn với miếng ván mỏng đặt trên đầu cột, Bàn Ông Thiên của một số gia đình khá giả ở vùng núi Thất Sơn được làm kỹ lưỡng và cầu kỳ hơn: có rào và cửa vách theo hình dạng đàn Nam Giao, có hai tầng, tầng trên thờ Trời, tầng dưới thờ đất.
Ngày nay, trong quá trình đô thị hóa, cái “Bàn Thiên” cổ xưa giờ được thay thế bằng tấm gạch mỏng xây trên lan can hoặc một cây cột hình trụ nhỏ đặt ngoài ban công của những tòa nhà cao tầng ở phố thị.
2/ - Tế Nam Giao
Nghi thức thờ Trời của người bình dân Việt Nam được thể hiện phổ biến qua cái “Bàn Thiên”. Còn việc “Thờ Trời” của vua quan nước Việt thì được thực hiện long trọng, quy mô hơn qua việc “Tế Nam Giao”.
Lễ Tế Nam Giao xuất xứ từ Trung Hoa du nhập vào Việt Nam. Người ta cho rằng: tục tế Trời đất có từ đời vua Phục Hy (2852- 2737 BC) bên Trung quốc, là một trong những hình thức cầu nguyện tập thể, có quy mô và được thực hiện trang nghiêm, long trọng để tương xứng với địa vị cao quý của Đấng Thần linh mà người ta thờ, mục đích cầu cho quốc thái dân an. Nam Giao là từ kết hợp của hai từ ngữ “Nam” và “Giao”. Tế Nam Giao có ý nghĩa là hướng về phía nam để giao hòa với Trời và tế cúng, vì theo quan niệm địa lý phương đông, phía nam là phía có ánh sáng, mà người ta cho rằng Trời ngự trong ánh sáng vì sự sáng là tốt lành.
Còn đối với Người Việt Nam, Nam cũng còn có nghĩa là nước Nam; Giao: có nghĩa là giao hòa, gặp gỡ. Như vậy, Nam Giao là nơi vua quan và thần dân nước Nam dâng của lễ tế Trời để tỏ lòng biết ơn, tôn kính đồng thời cầu khẩn Trời ban cho mọi việc trên đất đều được thuận lợi, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt.
Năm 1009, để khẳng định với phương Bắc chủ quyền của nước Nam và cũng để tạ ơn Trời, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Hậu Lý trong lịch sử Việt Nam, vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) cho xây đàn Nam Giao trên một gò đất cao ở phía nam, mỗi năm tế cúng một lần. Đàn Nam Giao khởi đầu chỉ là một bàn thờ lộ thiên là nơi để vua và dân tế Trời. Nghi lễ tế cúng gồm ba con vật thui là bò, lợn và dê. Vua Gia Long lên ngôi năm 1802. Sau đó, vào năm 1803, vua cho xây dựng đàn Nam Giao tại làng An Ninh, Huế với quy mô lớn gồm ba tầng chồng lên nhau; tầng trên cùng tượng trưng cho Trời. Đến năm 1806, vua cho dời đàn Nam Giao về phía Nam của Kinh thành Huế và đặt trên một ngọn đồi lớn thuộc làng Trường An, Huế.
Nghi lễ tế Nam Giao được tổ chức thực hiện rất qui mô, long trọng và là một nghi lễ tế tự cấp quốc gia lớn nhất của Việt Nam thời đó. Việc xây đàn và chuẩn bị các nghi thức hành lễ rất công phu và tốn kém, được thực hiện cách trang nghiêm, tôn kính. Phải là một nước độc lập, có chủ quyền mới được xây tế đàn. Vua nước ấy được gọi là thiên tử (con Trời). Vì Trời là Đấng chí tôn nên chỉ có thiên tử là người chịu mệnh Trời để cai trị nhân dân, mới được quyền thay thế muôn dân tế cúng Trời. Vua phải ngự ở trai cung để trai giới trong ba ngày. Sau đó phải trang phục chỉnh tề với áo bào và mũ miện để thực hiện công việc bái tế Trời một cách kính cẩn tôn nghiêm. Dân chúng tham dự với tất cả lòng thành.
Nghi lễ này được tổ chức mỗi năm một lần vào đầu mùa xuân. Về sau, đến đời vua Thành Thái (1907) được đổi lại ba năm tế cúng một lần vì việc cúng tế quá tốn kém vượt ngân sách quốc gia. Tế Nam Giao là một nghi lễ tế cúng Trời lớn nhất thời quân chủ ở Việt Nam. Lễ tế Nam Giao năm 1942 được ông A. De Rotalier, một tác giả nước ngoài, viết bài đăng trên “Indochine Hebdomadaire Illustré” (số ra ngày 16/4/1942).
IV / - “Ông Trời” của người Việt Nam và “Đức Chúa Trời” của Cơ đốc giáo
Trước khi Cơ đốc giáo được truyền bá sang Việt Nam, tâm thức của người dân Việt vẫn luôn có sự gắn bó mật thiết với “Ông Trời”. Trong cơn nguy khốn, sầu khổ người Việt cũng chỉ nhớ đến mỗi một tiếng kêu “Trời ơi!”. Người Việt thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, vẫn có niềm tin “Ông Trời” là Đấng Tạo hóa; Đấng Toàn năng, Toàn tri, Toàn tại, cai quản và bảo toàn vũ trụ cùng muôn loài sinh linh, đồng thời là Đấng cầm quyền trên sự sinh tử của loài người, là Đấng thưởng phạt công minh. Nhưng điều mà đa số người Việt chưa biết: “Ông Trời” trong tâm thức của người Việt cũng chính là Đấng mà Cơ đốc nhân tôn xưng “Đức Chúa Trời”. Vì Ngài đã tự bày tỏ chính mình qua mặc khải (vén màn, mở màn) trong Thánh kinh của Cơ Đốc Giáo:
Chúa là Đức Chúa Trời, ĐẤNG HIỆN CÓ, ĐÃ CÓ VÀ CÒN ĐẾN” là Đấng Toàn năng, phán rằng: Ta là An-Pha và Ô-mê-ga”. (Khải huyền 1:8)
Tất cả những phẩm tính của “Ông Trời” trong tâm thức người Việt đều thể hiện đầy đủ trong Đấng Thần Linh mà Cơ đốc nhân đang nương cậy và thờ phụng; đó là “Đức Chúa Trời”:
s Trời là Đấng Tạo hóa: Ý niệm Trời là Đấng Tạo hóa trong tâm thức của người Việt chỉ là một thứ nguyên tri, được Đức Chúa Trời đặt để trong tâm thức của người Việt từ buổi ban đầu, lúc tôn giáo chưa hình thành và chưa có hệ thống giáo lý dẫn đường. Đến khi Cơ đốc giáo được truyền bá sang Việt Nam, chính Đấng Tạo hóa, mà Cơ đốc nhân tôn xưng là Đức Chúa Trời, đã tự bày tỏ Ngài cũng chính là Đấng đã hiện hữu từ thuở ban sơ trong tâm thức của người Việt qua mạc khải trong Kinh Thánh Cựu ước :
Các từng trời thuộc về Chúa, đất cũng thuộc về Chúa; Chúa đã sáng lập thế gian và mọi vật nó chứa. (Thi-thiên 89:11) và (Sáng-thế-ký 1:1– 31).
s Trời là Đấng Toàn tri, Toàn năng, Toàn tại: Người Việt tin “Ông Trời” là Đấng soi thấu tất cả mọi sự việc trên thế gian. Niềm tin này vẫn còn được truyền tụng rộng rãi trong dân gian qua nhiều câu ca dao, tục ngữ, và cũng đã được Kinh thánh Cựu Ước của Cơ Đốc Giáo xác nhận:
Chẳng có sự gì Đức Chúa Trời không biết, chẵng chỗ nào không có Ngài” (Thi-thiên 139).
s Trời là Đấng cầm quyền trên sự giàu, nghèo, thành, bại:
Người Việt có câu: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” ; “Phú quý tại Thiên”; “Trời cho mới có, Trời không cho thì mạt”.
Kinh thánh Cựu ước có ghi lại câu chuyện của ông Gióp:
Người đáp lại rằng: Ngươi nói như một người đàn bà ngu muội. Ủa sao! Sự phước mà tay Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao? Trong mọi việc đó, Gióp không phạm tội bởi môi miệng mình” (Gióp 2:10)
s Trời là Đấng cầm quyền trên công lý, Đấng thưởng phạt công minh:
Người Việt có câu: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”
Kinh thánh Cơ đốc Giáo chép:
 Chúa đã thấy rồi; vì Chúa xem xét sự bạo tàn và sự độc hại, để lấy chính tay Chúa mà trả lại; Còn kẻ khốn khổ phó mình cho Chúa; Chúa là Đấng giúp đỡ kẻ mồ côi.(Thi-thiên 10:14)
s Trời là Đấng cầm quyền trên sự sinh, tử của loài người: Người Việt ý thức được sự sinh và sự tử của loài người cũng do nơi “Ông Trời” định đoạt nên đã có những câu : “Sống nhờ Trời, chết chầu Trời”; “Trời kêu ai nấy dạ”; và “Số Trời đã định, không đường chạy thoát”.
Kinh thánh Cựu ước của Cơ Đốc Giáo chép:
Chúa khiến loài người trở vào bụi tro, và phán rằng: hỡi con cái loài người, hãy trở lại” (Thi-thiên 90:3)
s Việc tế tự: Xem như việc tế tự của vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn): Vua chọn gò đất cao đặt bàn thờ lộ thiên, và chọn con sinh tế để làm của lễ thiêu dâng lên Trời. Điều này gần giống với việc ông Nô-ê - ông tổ của loài người sau cơn Đại hồng thủy – đã dâng của lễ thiêu lên Đức Chúa Trời như đã ghi trong Thánh kinh Cựu ước của Cơ Đốc Giáo:
Nô-ê lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va. Người bắt các súc vật thanh sạch, các loài chim thanh sạch, bày của lễ thiêu dâng lên bàn thờ” (Sáng-thế-ký 8:20).
Kinh thánh Tân Ước của Cơ Đốc Giáo cũng có chép:
23Vì khi ta trải khắp thành các ngươi, xem xét khí vật các ngươi dùng thờ phượng, thì thấy một bàn thờ có chạm chữ rằng : THỜ CHÚA KHÔNG BIẾT. Vậy Đấng các người thờ mà không biết đó, là Đấng ta đương rao truyền cho. 24 Đức Chúa Trời đã dựng nên thế giới và mọi vật trong đó, là Chúa của trời đất, chẳng ngự tại đền thờ bởi tay người ta dựng nên đâu” (Công-vụ-các-sứ-đồ 17:23-24).
Theo quan niệm địa lý Đông phương, Trời phải ngự trong ánh sáng, vì sự sáng là tốt lành; quan niệm này không khác với Kinh thánh của Cơ đốc giáo. Một trong những thuộc tính của Đức Chúa Trời là “Sự sáng”. Ngài đã tự khải thị những thông tin về chính Ngài qua sách tiên tri Ê-sai trong Thánh kinh Cựu Ước của Cơ đốc giáo:
 Ngươi sẽ chẳng nhờ mặt trời soi sáng ban ngày nữa, và cũng chẳng còn nhờ mặt trăng chiếu sáng ban đêm; nhưng Đức Giê-hô-va sẽ làm sự sáng đời đời cho ngươi, Đức Chúa Trời ngươi sẽ làm vinh quang cho ngươi” (Ê-sai 60:19).
Và trong Kinh thánh Tân Ước:
Nầy là lời truyền giảng mà chúng tôi đã nghe nơi Ngài và truyền lại cho anh em rằng: Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu” (I Giăng 1:5)
Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người” (Giăng 1:4)
Ta là sự sáng đã đến thế gian, để ai tin ta, chẳng ở nơi tối tăm nữa” (Giăng 12:40).
Qua những trình bày ở trên, chúng ta có thể rút ra được nhận xét, trên phương diện tâm linh, tư tưởng của người Đông phương và người Tây phương giao nhau tại một điểm: đó là Đấng Tạo Hóa toàn năng; và chúng ta là một phần trong sự tạo dựng của Ngài, được Ngài đặt trên tất cả các tạo vật khác để cai trị muôn loài vạn vật:
 Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: hãy sanh sãn thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất” (Sáng-thế-ký 1:27-28).
Linh mục Cadière đã nhận xét việc “Thờ Trời” của người Việt Nam như sau:
Tôi đã nghiên cứu tín ngưỡng, các thực hành lễ nghi tôn giáo, phong tục tập quán của họ và phải thừa nhận rằng dân An Nam sâu sắc về tôn giáo, tín ngưỡng của họ trong sáng và khi họ cầu cứu đến Trời, tế tự Trời thì cũng có thể họ cùng đến với cùng một Đấng Toàn Năng mà chính tôi đang thờ kính và gọi bằng CHÚA, và tự đáy lòng họ đang lưu giữ một tia sáng tôn giáo tự nhiên mà tạo hóa vốn ấn dấu vào tâm khảm nhân sinh” (Le Sacrifice du Nam Giao, Léopold Cadière).
Linh mục Cadière đã có sự liên kết sâu sát giữa “Ông Trời” trong tâm thức của người Việt và “Chúa” (Deus; Dieu; Dios; God) trong thần học tây phương để ra một Đấng Thần linh mà Cơ-đốc giáo tôn thờ là: “Đức Chúa Trời”. Vì tất cả những phẩm tính của “Ông Trời” của người Việt đều thể hiện đầy đủ nơi “Đức Chúa Trời” của Kinh thánh Cơ Đốc Giáo. Từ ngữ “Đức Chúa Trời” vốn là một từ ghép của hai từ: ”Trời” của người Việt, và “Chúa” của người Tây phương, đã được ông Alexandre de Rhodes, người đã sáng chế ra chữ Quốc ngữ, dùng mẫu tự La Tinh để phiên âm giọng nói của người Việt ghép lại thành để phiên dịch từ từ ngữ “Deus” (God - có ý nghĩa là Đấng Tuyệt đối, Đấng Mầu nhiệm tối cao đáng cho mọi tạo vật phải tôn thờ).
Chỉ có một khác biệt duy nhất giữa Đông và Tây là: Người phương Đông đã được Đấng Tạo Hóa ấn dấu trong tâm thức một nguyên tri về Ngài. Với nguyên tri ấy người phương Đông đã đến với Đấng Tạo hóa bằng những trải nghiệm trong cuộc sống thực tế của mình để nương cậy và tôn thờ Ngài. Vì không được chính Đấng Tạo Hóa mạc khải cho, nên người Phương Đông chỉ có được một khái niệm mơ hồ qua liên kết các sự vật, sự việc trong vũ trụ để hình thành trong tâm thức một Đấng Tạo hóa Toàn năng mà họ xưng gọi là Ông Trời. Ngài cũng chính là Đấng đã phán truyền cho tổ phụ của dân Do Thái, được ghi chép trong Kinh thánh của Cơ đốc giáo, rằng Ngài là ĐẤNG TỰ HỮU, HẰNG HỮU :
 Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là ĐẤNG TỰ HỮU, HẰNG HỮU: rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: ĐẤNG TỰ HỮU đã sai ta đến cùng các người”.
Vì không nhận được mạc khải từ chính Đấng Tạo Hóa như Ngài đã mạc khải trong Kinh thánh của Cơ đốc giáo, không có được một hệ thống giáo lý căn bản hướng dẫn việc thờ tự Đấng Tạo hóa, cho nên, trải qua nhiều thời đại, tư tưởng thờ Trời của người Việt chẳng những không được củng cố, phát triển mà còn bị ảnh hưởng các triết thuyết của những tôn giáo khác xâm nhập và làm cho niềm tin của người Việt mang tính đại đồng, người dân Việt mất phương hướng. “Ông Trời” chỉ còn chiếm được một vị trí khiêm tốn trong tâm trí của người Việt, và người Việt bị cuốn hút vào việc thờ cúng những thần tượng hư không. Họ chuyển lòng tin của mình sang những ông thần không có thực, không quyền không phép, thần do tay mình làm nên như đã chép trong Thánh Kinh:
Hình tượng chúng nó bằng bạc, bằng vàng, là công việc tay người ta làm ra (Thi thiên 115:4)
Hình tượng có miệng mà không nói; Có mắt mà chẳng thấy; Có tai mà không nghe; Có lỗ mũi mà chẳng ngửi; Có tay, nhưng không rờ rẩm; Có chân, nào biết bước đi; Cuống họng nó chẳng ra tiếng nào” (Thi-thiên 115: 5-7)
Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó, đều giống như nó” (Thi-thiên 115:8)
V/ - Kết luận:
Đức Chúa Trời, hay “Ông Trời” theo ngôn ngữ của người Việt đã đặt để trong tâm khảm của chúng ta một ý niệm về Ngài từ khi lập quốc. Tâm khảm người Việt chúng ta chưa bao giờ quên được “Ông Trời”. Ngài vẫn luôn luôn hiện hữu và đồng hành cùng với dân Việt trải qua bao cuộc đổi thay. Không may, ý niệm nguyên tri về “Ông Trời” dần dần bị các tôn giáo khác du nhập từ nước ngoài bóp nghẹt. Đạo thờ Trời không được củng cố và dần dần phai nhạt. “Ông Trời” không được người Việt thờ phụng đúng như chúng ta cần phải thờ!
Cầu xin Đức Chúa Trời đoái thương đến dân tộc Việt Nam, và mở mắt cho để dân tộc này biết từ bỏ những thần hư không mà quay trở về thờ phượng đúng Đấng đã tạo dựng ra mình.
Hoa Thiên Lý
Tài liệu tham khảo
1/ - Tôn Giáo Học Đại Cương – PGS – TS Trương văn Chung
2/ - Đạo “Đức Chúa Trời” – Vai trò của ngôn ngữ trong tiến trình hội nhập văn hóa – LM Nguyễn Đoàn Tân
3/ - Trời trong ca dao tục ngữ dân Việt - văn hóa Việt – http://e cadao.com
4/ - Người Việt Nam với Khái niệm về Ông Trời – Mục sư Nguyễn văn Huệ - http://hoptinhhoply.net/?q=node/99
5/ - Tập tục thờ Trời trong tâm thức người Việt – Nguyễn Nghệ - gplongxuyen.net (trích trong http://dunglac.org)
6/ - Lễ tế Nam Giao năm 1942 - Nguyễn Đắc Xuân - TT nghiên cứu lý học Đông Phương
7/ - Ý nghĩa tôn giáo trong tế Nam Giao của người Việt - Hiền Lâm - dunglac.org
8/ - Bàn Thiên: Một vật chứng thời khai hoang còn lại– Lê văn Dân – Hội khoa học lịch sử Bình dương

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Câu Chuyện Trong Ngày


T
rong câu chuyện hôm nay, chúng ta sẽ cùng suy niệm về một điều tưởng như rất xa vời nhưng lại là một thực tại vừa bí mật, vừa bất ngờ, đó là cuộc sống ở thế giới bên kia. Quý vị có tin rằng có đời sau ở bên kia thế giới chúng ta đang sống không ? Nhiều người tin có đời sau, nhưng thường không chắc chắn hay không biết những gì sẽ xảy ra sau khi chết. Một số nhỏ không tin, bảo rằng “chết là hết”. Những người khác thì không quan tâm, gạt bỏ chuyện đời sau sang một bên, chỉ biết lo cho đời này, lao đầu làm việc để kiếm sống, còn chuyện bên kia thế giới hạ hồi phân giải. Tóm lại, có 3 thái độ chính đối với cuộc sống đời sau : tin , không tin, và không quan tâm. Bạn có thái độ nào ? thái độ không tin có đời sau thật ra chỉ là một phản ứng tự vệ, khi người ta sợ hãi một thực tại họ biết mình không chủ động, vì sâu kín trong lòng, những người không tin có đời sau, không thể đưa ra một lập luận vững, đủ, để binh vực cho quan niệm của mình.
Chứng minh không có đời sau có lẽ cũng khó như chứng minh không có Thượng đế. Mặt khác, khi đa số con người đều cảm nhận được rằng có cuộc sống đằng sau cõi chết, nhưng người ta lại khó tìm thấy bằng chứng cho thực tại đó trong cuộc sống thường nhật, vì vậy con người tiếp tục sống trong nỗi khắc khoải không nguôi, mỗi khi nghĩ đến ngày mình phải từ giã thế giới này, bước sang một thế giới mình không biết.
Thông thường, con người thu đạt kiến thức qua 3 cửa : mắt, tai và suy luận. Tuy nhiên dường như cả 3 cửa này đều đóng kín đối với những tri thức về đời sau. Vì vậy Đức Chúa Trời đã hé mở cho con người một cánh cửa khác nhìn vào những thực tại thuộc linh trong cõi vĩnh hằng, và đó là cửa mặc khải. Thánh Phao-lô khi đề cập đến cánh cửa mặc khải này đã trưng dẫn sách tiên tri Ê-sai. Ông viết như sau :
 “Như có chép rằng ấy là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe và lòng người chưa nghĩ đến, nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn điều ấy cho những ai yêu mến Ngài. đức Chúa Trời đã dùng Đức Thánh Linh để bày tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Đức Thánh Linh dò xét mọi sự, cả đến sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa” (Theo Cô-rinh-tô 1 chương 2, câu 9, 10).
Trước khi đưa ra những điều Kinh thánh mặc khải về sự thực hữu của đời sau hay cõi vĩnh hằng, chúng ta cần nêu lên một số nhận xét sau đây :
Thứ nhất, con người thật của chúng ta là con người bên trong, là toàn thể nhân cách vô hình, không phải thân xác bên ngoài. Y học cho biết, cứ mỗi 7 năm, tất cả các tế bào trong thân xác chúng ta đều được thay thế bằng những tế bào mới. Về phương diện thể chất, con người chúng ta hôm nay không phải là con người của 7 năm trước. Tuy nhiên, tôi vẫn là tôi. Nói cách khác, thể chất tôi thay đổi nhưng con người bên trong hay linh hồn tôi vẫn y nguyên. Hoặc giả nếu vì một tai nạn hay bệnh tật nào, thân thể tôi không còn nguyên vẹn, không được lành lặn thì không vì thế mà nhân cách tôi trở nên không toàn vẹn. Một người khiếm thị hay có bất cứ tật nguyền nào khác vẫn là người. Yếu tố khiến con người là người không phải là thân xác, nhưng là linh hồn bên trong.
Thứ hai, hy vọng hướng về đời sau là loại hy vọng khá phổ biến, diễn tả bằng những câu như : “sống gửi thác về ; Qua thế giới bên kia”. Sierge Lewis (?) bảo rằng : “Vì con người đã được tạo dựng cho cõi vĩnh hằng, nên con người không thể nào ngừng khao khát hướng về cõi vĩnh hằng đó”. Giống như cá sống trong nước, cho nên cá được phú ban một bản năng rất bén nhạy đối với những nơi có nước. Ngày trước ở Việt Nam, có những chuyến xe chở cá trê, cá lóc từ miền Tây lên Sài Gòn đựng trong những thùng tole vuông, mỗi lần xe qua cầu, tất cả cá trong thùng đều nhất tề quậy mạnh. Cá luôn luôn muốn tìm đường về với nước.
Thứ ba, sợ chết là tâm trạng xuất phát từ bản năng phú ban cho con người, khiến con người có cảm nhận rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là bước sang một thế giới khác mà mình chưa biết, và hơn nữa chưa chuẩn bị. Vì thế con người không tránh khỏi hoang mang lo sợ, khi phải đối diện với cái chết.
Thứ tư, có quá nhiều bất công trên trần gian, cho nên nếu không có đời sau để thực sự có thưởng phạt công minh, thì dựa vào thực tế, dường như người ta có thể kết luận rằng: ăn hiền ở lành là dại, và những kẻ càng sống ích kỷ, gian tham trong cuộc đời, càng có lợi. Chính vì vậy, hầu như mọi người đều tin rằng, sự thưởng phạt, phán xét trong đời sau mới là chung thẩm.
Trở lại với lời dạy trong Kinh thánh về đời sau, điều đầu tiên chúng ta cần lưu ý, đó là Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người có cả linh hồn và thân xác . Sách Sáng thế ký chương 2 câu 7 ký thuật như sau:
 “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi thì người trở nên một loài sanh linh”.
 Loài sanh linh ở đây có thể dịch là “linh hồn sống”. Sau khi thủy tổ loài người là A-đam sa ngã phạm tội, con người đã ở dưới sự rủa sả của Đức Chúa Trời, phải lãnh án chết theo cả 2 nghĩa thuộc linh và thuộc thể. Về phương diện tâm linh, con người bị ngăn cách với Đức Chúa Trời; còn theo nghĩa đen, con người phải kinh nghiệm cái chết trong thân xác :
 “Vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về với cát bụi”.
Sách Truyền đạo  sau khi mô tả cái chết của con người, đã tiết lộ rằng: Thân xác con người vốn là bụi tro, sẽ trở về lòng đất; còn linh hồn, tức là con người thật sẽ đi vào cõi vĩnh hằng, mà chúng ta vẫn gọi là bên kia thế giới.
Chúa Cứu Thế Jêsus trong phúc âm Ma-thi-ơ chương 10 câu 28 đã cảnh cáo:
 “Đừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn, nhưng thà sợ Đấng làm cho mất cả linh hồn và thân thể trong địa ngục”.
Trong ánh sáng của những lời Kinh thánh trên, chúng ta có thể rút ra một số các chân lý sau đây: con người không chỉ có thân xác mà còn có cả linh hồn. Thân xác chỉ sống tạm một thời gian rồi trở về cát bụi, chỉ linh hồn mới là con người thật và mới trường tồn. Tất cả những gì chúng ta làm cho thân xác, bồi đắp cho thân xác, ăn ngon mặc đẹp, ở sung sướng, hưởng lạc thú v. v..., tất cả sẽ mai một theo thân xác, cùng với thân xác chôn vùi trong lòng đất. Còn những gì chúng ta làm cho linh hồn sẽ cùng trường tồn với linh hồn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong suốt bao nhiêu năm sống trên đời, bạn đã làm những gì cho thân xác và đã làm những gì cho linh hồn? Tôi đề nghị bây giờ bạn lấy ra một tờ giấy chia ra làm hai cột: cột bên trái ghi tất cả những gì bạn đã đầu tư cho cuộc sống trần gian, mấy chục năm học hành, bao nhiêu năm làm việc, bao nhiêu ngày vui chơi giải trí, bao nhiêu thì giờ ngồi xem TV…. v.v; còn cột bên phải, bạn ghi ra tất cả những cơ hội, cũng như thì giờ bạn đã dành ra để suy nghĩ, lo lắng cho linh hồn, để chuẩn bị cho cuộc sống ở thế giới bên kia, một khi bạn phải từ giã thế giới này trở về trình diện với Đức Chúa Trời. Tôi e rằng nhiều người trong chúng ta đã không ghi lại được một lần nào, một dòng nào, rằng có lần mình đã thực sự ngồi xuống suy nghĩ, lo lắng cho linh hồn. Nhiều người đã sống như mình không có linh hồn, nhiều người đã sống tưởng như không có đời sau, và chết là hết. Nhiều người đã sống như cỏ cây, như cầm thú, thật là vô lý. Chúa Jêsus đã kể câu chuyện này được ký thuật trong phúc âm Lu-ca chương thứ 12 như sau:
 “Người giàu kia trúng mùa, thu hoạch hoa lợi dư dật, kho lúa quá đầy không còn chỗ chứa thêm. Ông phải suy nghĩ mãi, cuối cùng ông quyết định: được rồi, được rồi, ta sẽ phá nhà kho cũ, xây kho mới lớn hơn, như thế sẽ có đủ chỗ chứa tất cả của cải, hoa lợi, xong xuôi, ta sẽ tự nhủ, của cải này có thể tiêu dùng được hàng chục năm. Thôi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi. Nhưng Đức Chúa Trời bảo: Ngươi thật dại dột , tối nay linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại, của cải dành dụm đó để cho ai?"
Người nào lo làm giàu dưới trần gian, nhưng nghèo nàn trên nước trời cũng dại dột như thế. Chúa đã gọi người chỉ biết lo vun quén cho cuộc sống trần gian mà không quan tâm gì đến linh hồn là kẻ dại dột. Trong cuộc sống bảy tám mươi năm mà con người đã bỏ ra hầu hết thời gian đó để học hành, làm lụng, cung phụng cho cuộc sống tạm, trong khi linh hồn sống muôn đời thì người ta lại hoàn toàn xao lãng. Đây chính là thái độ dại dột bị Chúa Jêsus cảnh cáo.
 Một mục sư ghi lại câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Ông phú hộ làng kia có một người đầy tớ chậm chạp, ngờ nghệch. Ngày kia ông gọi người đó lại cho một số tiền, bảo đi lên tỉnh tìm cách tự học làm ăn để học khôn. Ông cũng cho một cây gậy dặn rằng. Nếu gặp một người nào khờ khạo dại dột hơn mình, hãy cho hắn cây gậy đó. Vài năm sau, người đầy tớ trở về, thấy trong nhà người ra kẻ vào tấp nập, và ai nấy đều im lặng, mặt mày nghiêm trang, thì anh hỏi có việc gì, được biết ông chủ anh đang hấp hối. Anh vào phòng thăm, hỏi tại sao chủ lại nằm đây ? Ông chủ trả lời, ta sắp đi đến một nơi xa lắm. Thế chủ đã chuẩn bị gì cho chuyến đi xa đó chưa? anh hỏi tiếp. Chủ đáp: chưa, ta chưa kịp chuẩn bị gì cả, Người đầy tớ liền đưa cây gậy cho chủ bảo: chủ hãy cầm lấy cây gậy này, vì tôi chưa thấy người nào dại như chủ, đi xa như vậy mà không chuẩn bị gì.
Tất cả mỗi chúng ta dù muốn hay không, đều đang hành trình rất xa sang bên kia thế giới, nhưng bạn đã chuẩn bị gì cho chuyến đi này? xin nhớ rằng hầu hết những gì bạn vun xới cho cuộc sống dương gian đều vô dụng trong cõi vĩnh hằng. Trong cuộc sống tại trần gian, chúng ta có nhiều bạn hữu và người thân, nhưng trong chuyến đi sang thế giới bên kia vào cõi vĩnh hằng, bạn phải đi một mình. Nếu bạn có Chúa Cứu Thế Jêsus trong đời này, bạn sẽ có Ngài trong cõi đời đời, bằng không bạn sẽ vĩnh viễn sống trong cô đơn, và đi sang thế giới bên kia trong cô đơn tuyệt đối. Đến với Chúa Jêsus, bạn phải đến bằng đức tin và tiếp nhận phúc âm, là tiếp nhận chính Ngài. Kinh thánh dạy rằng: Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.

Theo Đài Nguồn Sống phát thanh ngày 07-03-2003