Translate

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Các nhà Khoa học đoạt giải Nobel nghĩ gì về Đức Chúa Trời?



CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐẠT GIẢI NOBEL NGHĨ GÌ VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI?
************
GIÁO SƯ: “Có những ngày tôi tin vào Chúa Trời, những ngày khác thì không.” Những lời trên là của một nhà vật lý học từng đoạt giải Nobel vật lý – Tiến sĩ Leon Lederman [LED-er-man].
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Việc một nhà khoa học tin rằng Chúa Trời có thể tồn tại có phải là bất thường không?
GIÁO SƯ: Tôi cũng đã tự hỏi điều đó khi đọc lời bình luận của tiến sĩ Lederman. Vì vậy tôi đã nghiên cứu những điều một số nhà khoa học đoạt giải Nobel đã nói về Chúa Trời. Nếu bạn thể dành ra được 15 phút, tôi sẽ rất vui được thảo luận về những điều mình khám phá được.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Xin cho tôi biết thêm về lời phát biểu mà Giáo sư đã trích dẫn vài phút trước. Nhà vật lý học nói rằng, “Có những ngày tôi tin vào Chúa Trời, những ngày khác thì không” có giải thích thêm chi tiết nào không?
GIÁO SƯ: Vâng. Không lâu sau khi đoạt giải Nobel vật lý năm 1988, tiến sĩ Leon Lederman đã phát biểu với tờ Chicago Tribune, tôi xin được trích ở đây, rằng “...Sẽ luôn có chỗ cho Chúa Trời. Nếu chúng ta khám phá được mọi quy luật của vật lý, câu hỏi vẫn còn, đó là ‘Ai đã thiết lập các quy luật nầy?’ ”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Từ nhiều năm nay tôi đã được bảo là tất cả các nhà khoa học đều là người vô thần. Có phải tiến sĩ Lederman là nhà khoa học duy nhất ở tầm cỡ đoạt giải Nobel tin rằng Chúa Trời tồn tại không?
GIÁO SƯ: Không phải vậy đâu! Nhà vật lý học người Đức Max Born đoạt giải Nobel vật lý năm 1954 về cơ khí lượng tử. Có lần ông đã bình luận “Những người cho rằng nghiên cứu khoa học khiến một người trở nên vô thần, là những người ngốc.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Tại sao ông ấy lại nói như vậy?
GIÁO SƯ: Ông ấy không nói rõ. Nhưng những nhà khoa học đoạt giải Nobel khác đã giải thích vì sao tin vào Chúa Trời cũng hoàn toàn có lý đối với họ. Chẳng hạn, nhà nghiên cứu người Anh gốc Đức, tiến sĩ Ernst Boris Chain đã được trao giải thưởng Nobel y khoa về công trình nghiên cứu liên quan đến khả năng chữa trị của pê-ni-xi-lin. Ông đã bình luận “Xác xuất để một sự kiện như việc hình thành phân tử ADN xảy ra bởi một sự trùng hợp tuyệt đối là quá nhỏ để có thể được xét đến một cách nghiêm túc... Giả thuyết về quyền năng chi phối trong sự hình thành và phát triển của các quá trình cần thiết cho sự sống trở nên một điều thiết yếu trong bất cứ lối giải thích nào.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, phải có một bộ não kiểm soát sự sáng tạo.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Erwin Schrodinger [ER-win SHROH-ding-er], một nhà vật lý học người Áo tiên phong trong vật lý lượng tử được trao giải Nobel vật lý năm 1933, cũng phát biểu một ý kiến tương tự.
Nhưng Schrodinger đã đi xa hơn mục đích của vũ trụ, đến mục đích của cuộc sống con người. Tôi xin được trích dẫn:
“Tôi hết sức ngạc nhiên rằng bức tranh khoa học của thế giới thực xung quanh tôi thật thiếu hụt. Nó cho rất nhiều thông tin xác thực và sắp xếp những kinh nghiệm của chúng ta theo một trật tự thích hợp, đẹp đẽ, nhưng nó lại yên lặng đáng sợ về tất cả những điều thật sự quan trọng đối với chúng ta. Nó không thể phân biệt đắng và ngọt, đau buồn và vui sướng. Nó không biết gì về đẹp hay xấu, tốt hay không tốt, Đức Chúa Trời và cõi đời đời. Đôi khi khoa học giả vờ trả lời những câu hỏi thuộc về những lĩnh vực nầy, nhưng những câu trả lời thường ngây ngô đến mức chúng ta không có chiều hướng xem trọng chúng.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Đó đúng là một điểm thú vị. Khoa học tự nhiên quá khách quan đến mức không thể cho chúng ta biết đâu là đẹp hay xấu, tốt hay không tốt.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Và việc quyết định liệu Chúa Trời có tồn tại hay không là vượt quá khả năng của khoa học.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Không có thí nghiệm nào của khoa học có thể phát hiện được Chúa Trời.
GIÁO SƯ: Đúng rồi. Một số lời phát biểu uyên thâm nhất về Chúa Trời đến từ những nhà khoa học sống trước thời có giải Nobel. Giải thưởng Nobel chỉ được lập ra vào thế kỷ 20. Nếu giải thưởng này ra đời sớm hơn, nhà toán học và vật lý học người Pháp vào thế kỷ thứ 17 là Blaise Pascal [blez pas-KAL] hẳn đã được trao giải.
Pascal tin rằng Chúa Trời đã bày tỏ về Ngài qua cái mà ông gọi là “hai cuốn sách.” Thứ nhất, Đức Chúa Trời bày tỏ sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài qua những tạo vật của Ngài – đó là cuốn sách của cõi thiên nhiên. Thứ hai, Đức Chúa Trời cho chúng ta thêm thông tin về Ngài trong lời của Ngài đã được chép ra, đó là Kinh Thánh.
Tôi xin được trích dẫn Pascal, “Đừng ai nghĩ rằng một người nào đó có khả năng nghiên cứu sâu xa hay quá kỹ lưỡng quyển sách lời Chúa hay quyển sách về những công việc của Ngài.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Ý tưởng đó mới đối với tôi đấy– ý tưởng rằng cõi thiên nhiên là một cuốn sách được viết bởi Đức Chúa Trời, và chúng ta có thể học được một điều gì đó về Đức Chúa Trời bằng cách nghiên cứu thế giới mà Ngài đã tạo dựng. Tôi muốn biết thêm.
GIÁO SƯ: Bạn có thể nói rất nhiều về một kỹ sư hay một nghệ sĩ mà không cần phải từng gặp gỡ người đó. Ngắm một bức tranh hay lái thử một chiếc xe, bạn có thể biết người đó tài năng đến mức nào, và người đó làm việc cẩn thận đến đâu. Tương tự, Kinh Thánh chép rằng “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm. Ngày này giảng cho ngày kia, đêm này tỏ sự tri thức cho đêm nọ.” (Thi Thiên 19:1 & 2)
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, trật tự của các tinh tú bày tỏ sự khôn ngoan và trật tự của Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng.
GIÁO SƯ: Vâng. Kinh Thánh cho biết thêm rằng cuốn sách của cõi thiên nhiên rõ ràng đến mức cách duy nhất con người bỏ sót thông điệp của nó là cố ý đóng suy nghĩ của họ lại.
Sách Rô-ma trong Kinh Thánh chép rằng “Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật. Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Khi chúng ta nghiên cứu dải ngân hà hoặc ADN, chúng ta thấy sự khôn ngoan và quyền năng của Đức Chúa Trời chứa đựng trong đó.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Pascal còn nói thêm “Đức Chúa Trời đã đưa ra đủ bằng chứng về sự tồn tại của Ngài, để chúng ta có thể tin. Nhưng Ngài không đưa ra đủ bằng chứng để khiến niềm tin đó trở nên ràng buộc.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Có phải ông ấy nói rằng Đức Chúa Trời bày tỏ đủ về Ngài để chúng ta có thể tin vào Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời không bày tỏ về Ngài một cách thuyết phục để buộc chúng ta phải tin Ngài không?
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Đức Chúa Trời tôn trọng sự khôn ngoan của chúng ta bằng cách khuyến khích chúng ta tư duy trong quá trình khám phá Ngài. Và Ngài tôn trọng quyền tự do của chúng ta, bằng cách không buộc chúng ta phải tin ngược lại với ý chí của mình.
Pascal nghĩ như vậy bởi vì, thay vì tạo ra chúng ta là những rô-bốt hay con người máy, Đức Chúa Trời muốn chúng ta lựa chọn Ngài và yêu Ngài. Pascal nói rằng nếu Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta mọi quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài, điều đó sẽ không sản sinh ra tình yêu, mà là sự khiếp sợ.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Như vậy là có một số lớn các nhà khoa học lỗi lạc tin vào Đức Chúa Trời.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Nhiều nhà khoa học thấy rằng càng học biết nhiều về tự nhiên bao nhiêu, họ càng dễ tin vào Đức Chúa Trời bấy nhiêu.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Điều đó nhắc tôi nhớ đến phát ngôn của một người nào đó, rằng: “Thiên nhiên là một hệ quả, mà nguyên nhân là Đức Chúa Trời.”
GIÁO SƯ: Đó là một sự tóm lược toàn hảo cho những gì Pascal và những nhà khoa học khác đã khám phá ra.
Trước khi hết giờ, tôi muốn được trích dẫn từ nhà vật lý học người Mỹ thế kỷ hai mươi, tiến sĩ Arthur Holly Compton [KOMP-tun]. Nhờ khám phá ra Hiệu ứng Compton, liên quan đến tia X, Compton đã được trao giải thưởng Nobel vật lý.
Tiến sĩ Compton đã viết: “Với tôi, đức tin bắt đầu bởi sự nhận biết rằng một sự khôn ngoan siêu việt đã dựng nên vũ trụ và tạo nên con người. Không khó để tôi có niềm tin này, bởi một vũ trụ thông minh, trật tự đã xác nhận cho phát ngôn vĩ đại nhất: ‘Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất...’”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Chúng ta đã thảo luận được khá nhiều thông tin trong ngày hôm nay. Giáo sư sẽ tóm lược những điều các nhà khoa học đoạt giải Nobel nghĩ về Đức Chúa Trời như thế nào?
GIÁO SƯ: Tiến sĩ Leon Lederman đã từng nói: “Có những ngày tôi tin vào Chúa Trời, những ngày khác thì không. Sẽ luôn luôn có chỗ cho Chúa Trời. Dù chúng ta có khám phá ra mọi quy luật của vật lý, câu hỏi vẫn còn đó: ‘Ai đã thiết lập các quy luật nầy?’”
Tiến sĩ Ernst Chain nhìn thấy mục đích và sự khôn ngoan trong các cấu trúc tự nhiên như ADN. Ông kết luận rằng: “Giả thuyết về quyền năng chi phối … trở nên một điều thiết yếu trong bất cứ lối giải thích nào.”
Tiến sĩ Compton gọi Đức Chúa Trời là “sự khôn ngoan siêu việt” và nói rằng: “một vũ trụ thông minh, trật tự đã xác nhận cho phát ngôn vĩ đại nhất: ‘Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất...’”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, không hẳn các nhà khoa học đoạt giải Nobel đều là người vô thần.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Tiến sĩ Richard đến từ đại học Stanford [STAN-ford] đã nhận xét: “Số lượng các nhà khoa học vô thần cũng nhiều như số các tài xế xe tải vô thần.”
Và đây là lời trích dẫn cuối cùng từ nhà vật lý học đoạt giải Nobel vật lý năm 1997. Tiến sĩ William Phillips nói rằng ông không thể đi hết sảnh nhà thờ của mình mà không gặp hàng chục nhà khoa học.
Trí tuệ không phải là một trở lực đối với niềm tin nơi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta yêu Ngài bằng lý trí của chúng ta.
Nguồn : Phuong Tran Facebook

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2015

Kinh Thánh: tác phẩm văn hóa



Kinh Thánh: Tác phẩm văn hóa vô giá của nhân loại
Tác giả: Nguyễn Hải Hoành


Một số hiểu lầm về Kinh Thánh
Cho tới nay dường như vẫn có nhiều người nghĩ rằng Kinh Thánh là sách nói về giáo lý của đạo Ki-tô, thuần tuý là sách tôn giáo, chỉ dùng cho các tín đồ Ki-tô giáo mà thôi – mà tôn giáo lại là lĩnh vực nhạy cảm, ở ta quen gọi là “thuốc phiện của nhân dân”, chớ có dại mà đụng chạm tới – vì vậy ai không theo Ki-tô giáo thì chẳng cần và chớ nên đọc Kinh Thánh. Cuốn sách gối đầu giường của hơn một tỷ tín đồ và được cả thế giới không ngừng xuất bản với số lượng nhiều nhất này chưa từng thấy bán tại các hiệu sách ở ta. Báo in, báo điện tử ngại đăng các bài viết liên quan tới Kinh Thánh.
Thực ra cách hiểu như vậy là lệch lạc và bất lợi cho mọi người trong việc tìm hiểu văn hóa nhân loại và văn hóa phương Tây nói chung cũng như văn hóa Ki-tô giáo nói riêng.
Hiểu lầm nói trên có thể bắt nguồn từ bản thân tên “Kinh Thánh” đem lại ấn tượng “thần thánh”, thần bí. Đây là cái tên không chính xác, dễ gây hiểu nhầm. Thực ra sách này vốn dĩ có hai tên gốc: 1) Tên tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là “sách”;  2) Tên tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước tác” “bài viết”, “bản thảo” – nói cách khác, nó hoàn toàn không có chút nào ý nghĩa thần thánh. Tiếng Anh đầu tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển.
Tên sai là do ta dùng từ hoàn toàn theo Trung Quốc. Ngày xưa, khi dịch Cựu Ước toàn thư và Tân Ước toàn thư ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho hai cuốn sách này cái tên “Thần thánh điển phạm” (Mẫu mực thiêng liêng) và “Thiên kinh địa nghĩa” (Đạo nghĩa muôn thủa); về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước thành một bộ sách, người Trung Quốc ghép hai chữ thứ hai lại thành “Thánh Kinh”, nghe nặng tính thần thánh, khiến người ta dễ hiểu lầm sách này chỉ là sách kinh điển của Ki-tô giáo. Quả thật, cái tên đó khi dịch sang tiếng Việt là Kinh Thánh đã nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, thánh thần, trở nên xa lạ với cộng đồng người không theo tôn giáo.
Đây thật là một sai lầm lịch sử đáng tiếc nhưng không thể sửa được vì đã quen dùng và cảm thấy thiêng liêng. Vì thế rất ít người Việt Nam thực sự biết Kinh Thánh là gì, nội dung ra sao, có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta. Đây là một thiệt thòi lớn về tri thức cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên.
Sơ lược nội dung Kinh Thánh
Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả viết trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2 sau CN, là một tác phẩm đồ sộ, bản tiếng Việt dày tới 1.400 trang chữ khổ nhỏ.
Cựu ƯớcGiao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do Thái) với Thượng Đế, là Kinh điển của người Hebrew, thực tế là bộ sử của một dân tộc dẫn đầu nền văn hoá nhân loại. Từ 5.000 năm trước, người Hebrew đã sáng suốt chỉ tin một đấng tối cao duy nhất họ gọi là Jehovah tức Thượng Đế (God), được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra tất cả (Tạo Hóa, the Creator) – khái niệm ấy ngày nay ta chưa hiểu rõ song lại chưa thể phủ nhận – chứ không thờ một thần thánh nào có nguồn gốc từ người hoặc vật.
Cựu Ước gồm 39 cuốn chia 4 phần: sách Luật pháp (5 cuốn đầu của Moses); sách Lịch sử (12 cuốn); sách Tiên tri (16 cuốn); sách Văn thơ (6 cuốn). Cựu Ước rất ít màu sắc tôn giáo, nó chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, là tài liệu vô cùng quý giá rất đáng nghiên cứu. Sách Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng Hebrew và một phần bằng tiếng Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ rất lâu trước khi viết thành văn. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản có thực và tồn tại cho tới ngày nay. Chứng cớ là thời gian 1947–1956, người ta phát hiện trong các hang động gần Biển Chết (Dead Sea, ở Israel) chứa hơn 900 “sách” có viết chữ (chữ Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi là Sách Cuộn Biển Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm cao. Giám định cho thấy số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới 70 sau CN, là những bản sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn toàn như Kinh Cựu Ước hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew. Phát hiện Sách Cuộn Biển Chết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Tân ƯớcGiao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng Đế, nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki-tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo hơn; nó trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: sách Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn); sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Các học giả cho rằng Tân Ước được viết xong vào khoảng năm 382 sau CN.
Kinh Thánh là một bộ sách có tính tổng hợp, một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá … Chưa dân tộc nào viết được bộ sử của mình một cách khái quát, hữu ích như Cựu Ước. Bộ sử này không viết nhiều về đời sống, hành vi của các vua chúa (như Sử Ký của Tư Mã Thiên), nhưng viết rất kỹ về quá trình di chuyển, các tai họa dân tộc (chiến tranh, đói kém …), các kinh nghiệm và đời sống của dân tộc này, qua đó đời sau có thể học được nhiều điều bổ ích.
Cựu Ước ghi lại đời sống mọi mặt của người Hebrew, từ việc lớn của quốc gia, dân tộc cho tới những chi tiết rất nhỏ nhặt trong ăn ở, đối nhân xử thế, thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục, nhờ thế giúp hậu thế hiểu chính xác, chi tiết về đời sống tinh thần vật chất của họ cách đây mấy nghìn năm. Một thí dụ: phương pháp tránh thai phổ biến nhất, cổ nhất xưa nay là xuất tinh ngoài âm đạo – phương Tây gọi là Onanism – từ này có nguồn gốc trong Kinh Thánh, chương 38 “Sáng thế ký (Genesis)” “Giuđa và con dâu là Tama”.[1]
Chưa dân tộc nào biên soạn và còn lưu giữ được một tác phẩm kinh điển có giá trị như Kinh Thánh phần Cựu Ước. Thí dụ “Kinh thánh” của văn minh Trung Hoa là sách Luận Ngữ hoàn toàn không có được tính tổng hợp như vậy, chưa kể còn ra đời sau 7 thế kỷ.
Kinh Thánh còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu của nhân loại. Trong Cựu Ước có các tác phẩm văn học trí tuệ, văn học tiên tri và văn học khải huyền, là những sáng tạo của người Hebrew.
Tính chất quan trọng của Kinh Thánh
Kinh Thánh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của dân tộc Do Thái. Cựu Ước là kinh điển của đạo Do Thái, nhờ tôn giáo này mà người Do Thái dù hai nghìn năm mất tổ quốc, sống lưu vong phân tán ở khắp nơi trên thế giới, bị hắt hủi, xua đuổi, thậm chí hãm hại, tàn sát nhưng vẫn giữ nguyên vẹn được nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa và nhất là họ luôn dẫn đầu thế giới trong các hoạt động trí tuệ. Ngày ngày cầu kinh, ôn lại lịch sử khốn khổ của dân tộc mình, là cách nhắc nhở người Do Thái luôn nhớ quá khứ gian nan của mình để cố gắng vươn lên thoát khỏi nghịch cảnh. Dân tộc nhỏ bé này có đóng góp cho nhân loại nhiều hơn mọi dân tộc khác. Một thí dụ: người Do Thái chỉ chiếm 0,25% số dân thế giới nhưng họ chiếm 22% tổng số giải Nobel các loại đã trao trong thời gian 1901-2007; trong đó có 41% giải Kinh tế, 26% giải Vật lý, 19% giải Hóa học, 28% giải Y học, 13% giải Văn học, 9% giải Hòa bình.
Đối với loài người, tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ nó được in đi in lại với số lượng nhiều nhất thế giới, mà còn ở chỗ được người ta quan tâm đọc và trích dẫn nhiều nhất – đây là tiêu chuẩn định lượng đánh giá một tác phẩm. Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng, được dịch ra 1.800 ngôn ngữ của khắp thế giới, có ảnh hưởng tới hàng tỉ người kể cả người không theo tôn giáo nào. Riêng nước Mỹ hàng năm in khoảng 9 triệu bản Kinh Thánh. Trung Quốc đã in hơn 40 triệu bản.
Kinh Thánh là nguồn cảm hứng và trích dẫn của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, lịch sử, triết học v.v… trên toàn thế giới. Từ bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng của Leonard de Vinci, tập thơ Thần khúc của Dante, các vở kịch của Shakespeare (vở Hamlet trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất), cho tới tiểu thuyết Sống lại của Tolstoy, …vô số tác phẩm văn học nghệ thuật đều lấy nguồn từ Kinh Thánh. Các trước tác của Karl Marx và Engels trích dẫn Kinh Thánh hơn 300 lần, liên quan tới hơn 80 nhân vật trong đó. Tại Trung Quốc, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn … đều trích dẫn Kinh Thánh. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên kỷ niệm lễ Phục sinh, Giáng sinh …, tiểu thuyết, sách báo ta thường nói A-đam, Ê-va, Chúa,… tất cả đều có nguồn gốc từ Kinh Thánh.
Bởi vậy nếu không hiểu Kinh Thánh thì sẽ rất khó tìm hiểu văn minh phương Tây – nền móng của văn minh hiện đại, cũng rất khó hiểu về dân tộc Do Thái. Không đọc Kinh Thánh thì tất nhiên sẽ dễ nói, viết sai về các điển tích đó. Rõ ràng tất cả mọi người, nhất là người làm công tác văn hóa văn nghệ, giáo dục, xã hội … đều nên đọc Kinh Thánh.
Kinh Thánh ở Việt Nam
Có lẽ vì nghĩ rằng Kinh Thánh là sách riêng của Ki-tô giáo, tuyên truyền cho tôn giáo, nên ở ta không thấy hiệu sách nào có bán Kinh Thánh do nhà xuất bản của nhà nước chính thức phát hành rộng rãi như một tác phẩm văn hóa bình thường.
Thực ra các giáo hữu ở ta đều có cuốn Kinh Thánh do Toà Tổng Giám mục Hà Nội kết hợp Nhà Xuất bản Hà Nội in và xuất bản với số lượng lớn nhưng chỉ phát hành nội bộ giáo hữu. Cuốn Kinh này chỉ in Tân Ước nặng tính tôn giáo; Cựu Ước quan trọng hơn thì lại không được in, thật đáng tiếc. Sách khổ nhỏ cỡ bàn tay in trên giấy tốt, bìa ni lông. Ngoài ra các giáo hữu còn có sách “Kinh Thánh bằng hình” (phụ bản của báo “Công giáo và Dân tộc” in tại TP Hồ Chí Minh năm 1991, lượng in 25.000 cuốn); đáng tiếc là hệ thống phát hành của nhà nước cũng không phát hành cuốn này.
Lùng các hiệu sách cũ, người viết bài này mua được một bản Kinh Thánh toàn tập tiếng Việt, dày 1.400 trang giấy mỏng, bìa giả da, do United Bible Societies in tại Hàn Quốc năm 1995. Sách dùng cách hành văn và từ ngữ cổ, khó hiểu; phần Tân Ước dịch khác nhiều so với bản in của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội.
Thiết nghĩ hệ thống xuất bản phát hành của nhà nước nên xuất bản phát hành Kinh Thánh như một tác phẩm văn hoá nghệ thuật nhằm khai thác kho tàng văn hóa vô giá này của nhân loại. Nên đưa việc học Kinh Thánh (nhất là Cựu Ước) vào chương trình giảng dạy phổ thông trung học. Cũng nên biên soạn các sách hướng dẫn tìm hiểu giá trị văn hoá lịch sử, khảo cổ … của Kinh Thánh. Việc tìm hiểu Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu đúng đắn, toàn diện về văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung, giúp chúng ta hoà vào dòng chảy chung của văn minh toàn cầu, đồng thời thể hiện chúng ta biết tôn trọng văn hoá tôn giáo – một thành phần rất quan trọng của văn hoá thế giới.
Đây là một việc cần làm khi Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa vào nhịp sống chung của toàn cầu, trong đó có đời sống văn hóa-tâm linh.
Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và là nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
———————-
[1] Dân Hebrew có tục chị dâu góa chồng mà chưa có con thì được quyền lấy một trong các em trai của chồng. Giuđa (cháu nội tộc trưởng Abraham) bảo con trai thứ hai của mình là Onan : Con hãy ngủ với chị dâu con (là Tama) để làm tròn bổn phận em chồng – sinh người nối dõi cho anh con (anh của Onan là Êrơ do độc ác đã bị Thượng Đế Jehovah giết). Onan biết đứa con nối dõi ấy sẽ không thuộc về mình nên khi “ngủ” với Tama đã cố ý làm rơi tinh dịch ra ngoài. Thượng Đế coi việc đó là tội ác nên đã giết Onan (trang 45 Kinh Thánh, United Bible Societies, bản tiếng Việt 1995, ở đây có sửa lại văn cho dễ hiểu). Từ Onanism bắt nguồn từ Onan – tên người có sáng kiến dùng cách tránh thai ấy.
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/07/15/kinh-thanh-tac-pham-van-hoa-vo-gia-cua-nhan-loai/#sthash.KIPAiyYL.dpuf
 Nguồn : Nghiencuuquocte.net